Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Chia sẻ cùng bạn về việc: Rót tiếp tiền lớn vào thị trường yến sào

Trên thế giới, thị trường các sản phẩm liên quan đến yến đạt doanh thu từ 6-7 tỷ USD/năm cùng tốc độ tăng trưởng 7,2%/năm. Tại Việt Nam, mấy năm gần đây, nuôi yến đã trở thành một phong trào lan rộng cả nước, cùng với sự xuất hiện của hàng loạt thương hiệu yến như Yến Việt, Hoàng Yến, Thiên Hoàng, Yến sào Khánh Hòa, Bảo Ngọc...
Yến Việt đầu tư thêm 6 tỷ đồng để nâng công suất lên 10 triệu lọ yến
Doanh thu nghìn tỷ, đầu tư trăm tỷ
Sau khi bắt tay với VinaCapital và được công ty này đầu tư 7,5 triệu USD, Yến Việt đã có những bước chuyển hướng rõ rệt thông qua việc thay đổi diện mạo công ty bằng một chiến dịch truyền thông, quảng bá thương hiệu khá rầm rộ.
Theo ông Võ Thái Lâm, Tổng giám đốc Yến Việt, sau chiến lược quảng bá thương hiệu, để thực hiện mục tiêu đạt trên 1.000 tỷ đồng doanh thu vào năm 2015 và xây dựng thương hiệu Yến Việt có tầm ở khu vực, Yến Việt tiếp tục tái cấu trúc hệ thống quản trị doanh nghiệp, thống nhất các ngành hàng, xây dựng thương hiệu chuyên biệt, làm mới hệ thống marketing và phân phối thông qua việc triển khai các cửa hàng cung cấp thức ăn nhanh từ ổ yến như: cháo, súp, chè nằm gần các bệnh viện lớn trên địa bàn TP.HCM.
Cũng theo ông Lâm, với mục tiêu từ nay đến năm 2015, hệ thống phân phối phải trải rộng khắp ba miền và vươn ra ra thị trường nước ngoài như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore... Yến Việt đã đầu tư thêm 60 tỷ đồng để nâng công suất chế biến lên 10 triệu lọ yến và dự kiến đến năm 2015 đạt 28 triệu lọ.
Trong khi đó, một doanh nghiệp kinh doanh yến lớn nhất nhì hiện nay là Yến sào Khánh Hòa cũng vừa xây dựng nhà máy chế biến nguyên liệu yến sào tại huyện Diên Khánh với công suất 30 triệu sản phẩm/năm và nhà máy nước giải khát cao cấp yến sào tại thành phố Cam Ranh với công suất 50 triệu sản phẩm/năm.
Theo ông Lê Hữu Hoàng, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Yến sào Khánh Hòa, Công ty tiếp tục làm mới bằng việc đa dạng hóa sản phẩm yến sào và các sản phẩm dinh dưỡng có bổ sung yến như bánh, yaourt...
Công ty đã xuất khẩu lô sản phẩm đầu tiên của nhà máy sang thị trường Úc với 200.000 sản phẩm. Trong thời gian tới, nhà máy tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu ra các thị trường Hồng Kông, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Phân hóa ở đỉnh cao
Trên thế giới, thị trường các sản phẩm liên quan đến yến đạt doanh thu từ 6-7 tỷ USD/năm cùng tốc độ tăng trưởng 7,2%/năm. Tại Việt Nam, mấy năm gần đây, nuôi yến đã trở thành một phong trào lan rộng cả nước, cùng với sự xuất hiện của hàng loạt thương hiệu yến như Yến Việt, Hoàng Yến, Thiên Hoàng, Yến sào Khánh Hòa, Bảo Ngọc...
Yến Việt có 18 nhà nuôi yến từ Phú Yên đến Cà Mau, năng suất khai thác bình quân 2 tấn/năm và nhà máy chế biến yến sào tại Cụm Công nghiệp Thành Hải (Phan Rang) với công suất 5 triệu sản phẩm/năm.
Nhà máy có tổng vốn đầu tư 4 triệu USD, đã hoàn thành giai đoạn 1 và đang triển khai giai đoạn 2. Sự đầu tư quá lớn như Yến Việt hay Yến sào Khánh Hòa đã đẩy những thương hiệu nhỏ khác vào thế yếu, hoặc phải đầu tư lớn hơn hoặc mất dần chỗ đứng trên thị trường.
Theo ông Đỗ Xuân Hùng, Giám đốc Công ty TNHH Thiên Phú Lộc, sở hữu thương hiệu Yến Cung Đình, để đảm bảo nguồn nguyên liệu, Công ty cũng đang triển khai dự án nhà yến khoảng 2.000m2 tại tỉnh Bình Phước.
Thị trường yến sào Việt Nam vẫn đang tăng trưởng mạnh. Chẳng hạn, 6 tháng đầu năm, doanh thu của Yến sào Khánh Hòa đạt 1.181 tỷ đồng, tăng 46%, Yến Cung Đình tăng 25%, Hoàng Yến tăng 20%...
Tuy nhiên, những đầu tư quy mô lớn của Yến Việt và Yến sào Khánh Hòa buộc các doanh nghiệp khác phải thay đổi chiến lược kinh doanh.
Ông Lê Danh Hoàng, Giám đốc Công ty TNHH Chấn Hưng, sở hữu thương hiệu Yến sào Hoàng Yến, không giấu giếm khi lý giải việc thay đổi mô hình kinh doanh: "Do thực lực không đấu nổi với các thương hiệu lớn nên chúng tôi chọn mô hình tự bán lẻ. Hiện nay, sản lượng thu hoạch tổ yến thô với quy mô công nghiệp của chúng tôi ngày càng tăng. Điều này không những giúp giảm giá bán trong khi lợi nhuận tăng đáng kể do không phải đi mua nguyên liệu từ bên ngoài, mà còn giúp khép kín toàn bộ quy trình kiểm soát chất lượng từ nuôi trồng, thu hoạch, chế biến, bán lẻ và phục vụ tại nhà hàng. Hiện chúng tôi tự đầu tư và quản lý 10 showroom và 4 nhà hàng".
Mặc dù lợi nhuận vẫn đang rất tốt nhưng đứng trước sự cạnh tranh gia tăng từ hàng trăm công ty yến sào trong cả nước và sự hạn chế của nhãn hiệu tiếng Việt khi mở rộng ra thị trường nước ngoài, Chấn Hưng đã quyết định tái cơ cấu toàn bộ doanh nghiệp trên bốn lĩnh vực: Thay đổi tên công ty và thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp, mô hình kinh doanh và danh mục ngành hàng.
Để rút ngắn thời gian xây dựng thương hiệu mới và những thủ tục khi đăng ký thương hiệu ra nước ngoài, Chấn Hưng đã mua lại một công ty của Malaysia với đầy đủ tên thương hiệu tiếng Anh đã được đăng ký, công thức chế biến một số sản phẩm và dây chuyền sản xuất.

Cùng khám phá việc doanh nghiệp nước giải khát tăng tốc đầu tư

Trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, thị trường tăng trưởng có thấp hơn, nhưng theo ông Việt, Việt Nam vẫn là thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng với các nhà sản xuất nước giải khát. Bởi hiện nay trung bình mỗi người tiêu dùng chỉ uống trên 20 lít nước giải khát đóng chai không cồn/năm, trong khi mức tiêu thụ trung bình của mỗi người dân ở các nước trên thế giới là trên 40 lít/năm.
Nhiều doanh nghiệp ngành nước giải khát gần đây đẩy mạnh việc đầu tư với mục tiêu mở rộng thị phần. Sức ép cạnh tranh trên thị trường này ngày càng tăng lên.
Người tiêu dùng mua sản phẩm nước giải khát ở siêu thị
Một số đánh giá của giới chuyên gia cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài đang ngày càng thâm nhập và mở rộng quy mô sản xuất tại thị trường nước giải khát không cồn của Việt Nam.
Doanh nghiệp nước ngoài mở rộng thị phần
Đơn cử như Vedan Việt Nam, sau nhiều năm tham gia sản xuất và chế biến những sản phẩm trong ngành gia vị, doanh nghiệp này gần đây đã quay sang đầu tư vào mặt hàng nước uống Thiên Trà.
Việc mở rộng dòng sản phẩm kinh doanh tại Việt Nam của Vedan trong thời điểm kinh tế khó khăn hiện nay, theo các chuyên gia, cho thấy thị trường nước giải khát vẫn sẽ tăng trưởng tốt.
Trong khi đó, công ty nước giải khát hoạt động khá lâu của Việt Nam là Tribeco mới đây đã bị thâu tóm bởi nhà đầu tư nước ngoài. Uni President Việt Nam (Đài Loan) đã mua toàn bộ cổ phần nhà máy Tribeco Bình Dương của Tribeco.
Tribeco Sài Gòn đã đóng cửa hai nhà máy cũ tại TPHCM và hiện nay chỉ giữ vai trò là nhà bán hàng, hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn hàng do Tribeco Bình Dương cung cấp, mà thực chất là của Uni-President Việt Nam.
Đối với nhà sản xuất nước hoa quả đóng chai, đóng hộp và các loại nước giải khát Kirin đến từ Nhật Bản, sau thời gian đầu tư hoạt động ổn định tại khu công nghiêp Mỹ Phước 2 ở Bình Dương gần đây đã quyết định tăng vốn thêm 15,8 triệu đô la Mỹ để tăng năng lực sản xuất cho nhà máy của mình.
Tuy nhiên, khi nói về sức ép cạnh tranh trên thị trường nước giải khát Việt Nam phải kể đến những động thái gần đây nhất của hai nhà sản xuất nước giải khát toàn cầu là Coca-Cola và PepsiCo.
Sau khoản đầu tư 200 triệu đô la Mỹ cho ba năm kéo dài đến hết năm 2012, trong chuyến viếng thăm và làm việc mới đây tại Hà Nội, ông Muhtar Kent, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành tập đoàn Coca-Cola, công bố sẽ rót thêm 300 triệu đô la Mỹ vào Việt Nam trong vòng ba năm tới. Việc gia tăng đầu tư sẽ bắt đầu từ năm 2013.
Trong giai đoạn 2013 - 2015, phần lớn nguồn vốn đầu tư kể trên dự kiến được sử dụng vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các nhà máy tại Việt Nam. Hiện Coca-Cola có ba nhà máy tại Hà Nội, Đà Nẵng và TPHCM. Ngoài ra, tập đoàn này cũng sẽ đầu tư cho việc phát triển thương hiệu và thị trường, cũng như phát triển nguồn nhân lực và hỗ trợ đại lý bán lẻ.
Ông Kent khẳng định Việt Nam vẫn là thị trường hấp dẫn khi sức tiêu thụ của người dân chỉ mới bằng 20% mức trung bình của thế giới. “Việt Nam là một thị trường tăng trưởng quan trọng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong quá trình chúng tôi nhắm tới mục tiêu của tầm nhìn 2020, bao gồm việc tăng gấp đôi doanh số và số lượng phần thức uống trong thập kỷ này”, ông nói.
Cam kết khoản đầu tư mới của Coca-Colca chỉ sau vài ngày đối thủ nặng ký của hãng là PepsicCo công bố hình thành liên minh chiến lược với Suntory (Nhật) tại Việt Nam, với việc Suntory sẽ nắm giữ 51% cổ phần của PepsiCo tại Việt Nam và PepsiCo giữ 49% cổ phần còn lại trong dự án.
PepsiCo vẫn chịu trách nhiệm về hoạt động tiếp thị, cải tiến các nhãn hiệu đồ uống của họ tại thị trường gần 80 triệu dân này như Pepsi-Cola, 7-UP, Sting, Mirinda, Tropicana Twister, Lipton và Aquafina.
Ông Umran Beba, Chủ tịch của PepsiCo Asia Pacific, trong một thông cáo báo chí đã cho biết công ty đang mở rộng hoạt động kinh doanh đồ uống và thực phẩm tại Việt Nam, và việc hợp tác với Suntory là một phần quan trọng trong chiến lược tăng trưởng dài hạn bền vững của hãng ở Việt Nam.
Một chuyên gia phân tích việc hợp tác này mang tính chiến lược của hai tập đoàn trên thế giới và thương hiệu nước giải khát Pepsi qua việc hợp tác này sẽ tiếp tục phát triển ở Việt Nam. Vì trên thực tế PepsiCo và Suntory đã hợp tác thành công ở một số thị trường khác, bao gồm Mỹ, Nhật Bản và New Zealand.
Theo ông Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch Hiệp hội Rượu bia và Nước giải khát Việt Nam, thị trường nước giải khát không cồn của Việt Nam trong 5-7 năm qua luôn tăng trưởng trên 20% - là mức tăng trưởng cao của thế giới.
Trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, thị trường tăng trưởng có thấp hơn, nhưng theo ông Việt, Việt Nam vẫn là thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng với các nhà sản xuất nước giải khát. Bởi hiện nay trung bình mỗi người tiêu dùng chỉ uống trên 20 lít nước giải khát đóng chai không cồn/năm, trong khi mức tiêu thụ trung bình của mỗi người dân ở các nước trên thế giới là trên 40 lít/năm.
Doanh nghiệp trong nước không đứng ngoài cuộc
Trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt đến từ các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước của ngành nước giải khát cũng chuyển động.
Tập đoàn Tân Hiệp Phát đã quyết định đầu tư hai nhà máy mới sản xuất 40 loại sản phẩm đồ uống của tập đoàn này tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên với nhà máy nước giải khát Number One Chu Lai (công suất 600 triệu lít/năm) và miền Bắc với nhà máy nước giải khát Number One Hà Nam (tổng công suất 950 triệu lít/năm).
Theo lãnh đạo công ty, việc đầu tư tại hai địa phương nói trên nhằm phủ kín thị trường miền Trung và miền Bắc thay vì phải đưa sản phẩm từ nhà máy tại Bình Dương hiện nay ra. Hai nhà máy đều được đầu tư 100% các dây chuyền sản xuất đồng bộ và hiện đại từ châu Âu, quy trình sản xuất khép kín.
Trong khi đó, nhà máy sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy thuộc Công ty cổ phần Đường Quảng Ngãi vào tháng 8 rồi đã được động thổ xây dựng nhà máy mới tại tỉnh Bắc Ninh.
Nhà máy sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy - Bắc Ninh có vốn đầu tư khoảng 650 tỉ đồng, có công suất thiết kế 1 tỉ hộp sản phẩm/năm. Việc xây dựng nhà máy mới tại tỉnh Bắc Ninh, theo chủ đầu tư, là nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng sữa đậu nành của người tiêu dùng khu vực miền Bắc.
Theo các chuyên gia, tốc độ tăng trưởng của ngành giải khát không cồn sẽ tiếp tục tăng và còn nhiều khoảng trống. Nhưng muốn đặt chân vào thị trường nước uống đóng chai Việt Nam không dễ vì các nhà sản xuất lâu năm với tên tuổi lớn đã có thị trường và kênh phân phối rộng khắp.
Các hãng này cũng sẵn sàng mạnh tay chi cho việc quảng bá và giới thiệu sản phẩm. Do đó, những doanh nghiệp yếu thế về tài chính và kinh nghiệm trong sản xuất sẽ khó cạnh tranh để khởi đầu tại Việt Nam.

Vì sao có chuyện thị trường ô tô: Cung lụy cầu?

Tuy nhiên, khảo sát cũng chỉ rõ sự "khó chịu" của những người này khi mức độ hài lòng của họ đối với các hãng, các đại lý lại thấp hơn những người đã mua xe từ lần thứ hai. Điều này cho thấy người tiêu dùng ngày càng có những yêu cầu mới hơn.Ông Rajeev Nair, Giám đốc J.D. Power châu Á - Thái Bình Dương, cho biết: "Những người lần đầu mua ô tô mới đa số chưa quen với quy trình mua bán, cũng như các tính năng và sự vận hành của xe mới.
Đây là năm thứ tư J.D. Power khảo sát về mức độ thỏa mãn của khách hàng tại Việt Nam trong quá trình mua và nhận xe mới (Vietnam Sales Satisfaction Index - SSI). Khảo sát dựa trên 7 yếu tố tạo nên sự thỏa mãn của khách hàng.
Các yếu tố này gồm: quá trình giao xe, thời gian giao xe, quy trình mua bán, thủ tục giấy tờ, nhân viên bán hàng, cơ sở vật chất của đại lý bán xe và sự thỏa thuận.
Mức độ hài lòng của khách hàng được chấm theo thang điểm 1.000, hãng nào có điểm cao hơn là thỏa mãn khách mua xe mới tốt hơn. Trong số những thương hiệu xe khảo sát năm nay, Ford có điểm số thỏa mãn khách hàng mua xe mới cao nhất (856), với thế mạnh là "thời gian giao xe và quy trình mua bán".
Honda xếp thứ hai như năm trước khi chỉ thua Ford đúng một điểm.  Khách hàng đánh giá cao Honda vì những đại lý của thương hiệu này "có cơ sở vật chất khá tốt cũng như quy trình mua bán, thủ tục nhanh gọn".
Toyota, với 849 điểm, vẫn đứng thứ ba, "sự thỏa thuận mua bán ban đầu" được coi là thế mạnh của hãng này. Một điểm đáng lưu ý là nếu như năm ngoái Hyundai giữ ngôi đầu bảng thì năm nay lùi sâu về vị trí thứ tư, với 848 điểm.
Một nét mới là theo công bố từ khảo sát, lượng người lần đầu tiên mua xe hơi tại Việt Nam năm nay tăng đến 14% so với năm ngoái. Đây có thể là yếu tố để các doanh nghiệp lạc quan trong thời gian tới khi nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng.
Chương trình khảo sát năm 2012 do J.D Power Châu Á - Thái Bình Dương được thực hiện với gần 1.000 người mua xe mới trong thời gian từ tháng 10/2011 - 6/2012. Các thương hiệu được khảo sát gồm: Toyota, Honda, Chevrolet, Ford, Hyundai, Kia, Mitsubishi và Nissan.
Kết quả khảo sát không xếp hạng Mitsubishi và Nissan do số lượng khách hàng tham gia khảo sát quá nhỏ. Có chi tiết hơi khác lạ là sự vắng mặt của Mercedes-Benz.
Tuy nhiên, khảo sát cũng chỉ rõ sự "khó chịu" của những người này khi mức độ hài lòng của họ đối với các hãng, các đại lý lại thấp hơn những người đã mua xe từ lần thứ hai. Điều này cho thấy người tiêu dùng ngày càng có những yêu cầu mới hơn.
Ông Rajeev Nair, Giám đốc J.D. Power châu Á - Thái Bình Dương, cho biết: "Những người lần đầu mua ô tô mới đa số chưa quen với quy trình mua bán, cũng như các tính năng và sự vận hành của xe mới.
Để chinh phục được lượng khách hàng tiềm năng, khách hàng mua xe lần đầu tiên, các đại lý không còn cách nào khác là phải tỏa đi xa hơn để tiếp cận những khách hàng tiềm năng, nắm bắt nhu cầu và yêu cầu của họ, đồng thời tìm cách đẩy nhanh quyết định mua xe của khách".

Tìm hiểu về câu chuyện: Bó chân vàng miếng, vàng trang sức rộng đường?

Hơn chín tháng sau đó, ban lãnh đạo công ty SJC đưa ra chiến lược mới, với trọng tâm mở rộng thị phần vàng trang sức. Ông Đỗ Công Chính, tổng giám đốc công ty SJC, cho biết: “Trong định hướng phát triển lâu dài, tập trung vào ngành nữ trang, SJC sẽ tập trung xây dựng cơ sở vật chất quy mô tại TP.HCM”. Tuy nhiên, họ sẽ phải cạnh tranh với thương hiệu đang dẫn đầu thị trường trang sức Việt Nam hiện nay là PNJ.
Sau khi thương hiệu SJC thuộc quyền quản lý của ngân hàng Nhà nước (NHNN), cả SJC và PNJ, hai doanh nghiệp tên tuổi trong kinh doanh vàng đều đặt mục tiêu phát triển vàng trang sức.
Bước ngoặt từ các quyết định
Ông Nguyễn Thành Long – nguyên Tổng giám đốc công ty TNHH một thành viên Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC), hiện đang là chủ tịch hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam, người đã gắn bó với SJC kể từ khi thành lập, nhớ lại: “Phải mất gần mười năm SJC mới tìm được chỗ đứng trên thị trường vàng miếng”.
Ông Long kể, những năm trước 1975, người dân sử dụng vàng lá như là một loại tiền tệ có giá trị mạnh. Trong đó, phổ biến nhất là vàng lá hiệu Kim Thành, Kim Hoàn mà dân quen gọi là vàng trái núi, vàng sọc. Mỗi lượng vàng lúc đó gồm 2,5 lá vàng mỏng, hàm lượng vàng khoảng 99,97 – 99,98%.
Đến tháng 10/1988, công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn SJC tham gia kinh doanh vàng theo cơ chế thị trường. Tuy là vàng đúng 9999, tiện dụng để cất trữ, nhưng vàng miếng Rồng vàng SJC vẫn bị đánh giá thấp hơn.
Bước ngoặt đáng kể của thương hiệu này, phải kể tới một văn bản của cơ quan nhà nước ban hành năm 1992, trong đó ghi rõ, việc hoá giá nhà tính bằng vàng SJC. Thời đó, giao dịch nhà đất, nhất là giao dịch lớn, chủ yếu đều thanh toán bằng vàng.
Mãi tới gần đây, việc sử dụng vàng trong thanh toán nhà đất mới giảm đi. Từ lợi điểm ban đầu, cùng với việc phát triển cửa hàng đại lý lên hơn 80 điểm, vàng SJC chiếm lĩnh thị trường từ sau năm 2000.
Nếu mốc 1992 là khúc quanh tạo đà tăng, thì ngày 25/11/2011 là khúc quanh “ngặt nghèo” do hơn 80% doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp này là từ vàng miếng. Lúc đó, ở diễn đàn Quốc hội, thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình tuyên bố: “Kể từ giờ phút này trở đi, SJC trở thành nhãn hiệu vàng của NHNN”.
Lý do SJC được chọn khá đơn giản. Bởi đây là thương hiệu thuộc về một công ty nhà nước, khống chế 93% thị phần.
Chuyển đầu tư vào trang sức
Hơn chín tháng sau đó, ban lãnh đạo công ty SJC đưa ra chiến lược mới, với trọng tâm mở rộng thị phần vàng trang sức. Ông Đỗ Công Chính, tổng giám đốc công ty SJC, cho biết: “Trong định hướng phát triển lâu dài, tập trung vào ngành nữ trang, SJC sẽ tập trung xây dựng cơ sở vật chất quy mô tại TP.HCM”. Tuy nhiên, họ sẽ phải cạnh tranh với thương hiệu đang dẫn đầu thị trường trang sức Việt Nam hiện nay là PNJ.
Vào ngày 18/10 vừa qua, PNJ vừa mới đưa xí nghiệp sản xuất trang sức quy mô hiện đại và công suất lớn nhất Việt Nam hiện nay – đạt 4 triệu sản phẩm/năm vào sản xuất.
Cũng như SJC, khi mất đi cơ hội kinh doanh vàng miếng hiệu Phượng Hoàng, doanh thu PNJ sụt giảm mạnh. Báo cáo tài chính quý 3 của PNJ cho thấy doanh thu chín tháng đầu năm chỉ đạt 4.885 tỉ đồng, giảm đến 65,8%. Bà Cao Thị ngọc Dung, chủ tịch hội đồng quản trị PNJ, cho biết: “Tầm nhìn của PNJ sẽ là công ty chế tác và bán lẻ trang sức hàng đầu tại châu Á, giữ vị trí số một trong tất cả các phân khúc thị trường mà PNJ nhắm tới tại Việt Nam”.
Đáng chú ý, cả SJC và PNJ đều đặt mục tiêu tăng doanh thu xuất khẩu trang sức. Trong lĩnh vực này, PNJ có lợi thế nhờ đội ngũ hàng trăm nghệ nhân có tay nghề cao được đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm trong gần 25 năm qua.

Chia sẻ cùng bạn về việc Vicofa ra sức tái canh cây cà phê

"Do đó, Vicofa cũng nên lấy cột mốc này làm căn cứ tham chiếu để áp dụng, hơn là ấn định tái canh đối với cây cà phê có khoảng 20 năm tuổi, điều này cũng góp phần tiết giảm rất nhiều chi phí kế hoạch. Bởi hiện tại, diện tích vùng cà phê có 20 năm tuổi tại Công ty TNHH MTV Cà phê Thắng Lợi vẫn cho năng suất rất cao", ông Thái nói.
Mặc dù chưa có sự đồng ý chính thức, nhưng công tác tái canh cũng đang được Vicofa triển khai tới 5 tỉnh Tây Nguyên là: Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng và 3 đơn vị là Công ty TNHH MTV Cà phê Thắng Lợi, Công ty TNHH MTV XNK Cà phê 2/9 và một DN của Tổng công ty Cà phê Việt Nam.
Theo đó, Tổng công ty tự ươm giống và giao cho các đơn vị thành viên. Tổng số cây giống Vicofa đã giao cho các tỉnh và DN đến nay là lên đến 376.000 cây.
Bên cạnh việc giao cây giống, Vicofa còn phối hợp với các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh trên và Viện Khoa học nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) kiểm tra kết quả song song.
Trên thực tế, việc tái canh cây cà phê là rất tốt, song điều này cũng tốn khá nhiều chi phí. Theo ông Nguyễn Xuân Thái, Giám đốc Công ty TNHH MTV Cà phê Thắng Lợi, chỉ tính riêng tiền giống tái canh cũng ngốn gần cả chục ngàn tỷ đồng.
Do đó, các khuyến cáo tại hội nghị tổng kết niên vụ cà phê năm 2011-2012, cho rằng, để đề án được duyệt, cần tạo kế hoạch tái canh. Cụ thể, Vicofa cũng nên có sự tính toán lại diện tích, phân vùng và quan trọng là tuổi đời của cây cà phê cần tái canh.
Theo Viện Nghiên cứu cà phê Việt Nam, việc tái canh nên áp dụng cho cây cà phê có độ tuổi từ 27-30 năm tuổi sẽ phù hợp nhất.
"Do đó, Vicofa cũng nên lấy cột mốc này làm căn cứ tham chiếu để áp dụng, hơn là ấn định tái canh đối với cây cà phê có khoảng 20 năm tuổi, điều này cũng góp phần tiết giảm rất nhiều chi phí kế hoạch. Bởi hiện tại, diện tích vùng cà phê có 20 năm tuổi tại Công ty TNHH MTV Cà phê Thắng Lợi vẫn cho năng suất rất cao", ông Thái nói.
Xét ở tầm dài hạn, việc đề xuất tái canh cây cà phê của Vicofa là định hướng đảm bảo kế hoạch phát triển cà phê từ 5-10 năm tới không bị giảm sản lượng. Đây được xem là bước đệm chuẩn bị của một trong bốn mặt hàng chủ lực của nông nghiệp Việt Nam gồm: gạo, cà phê, cao su, thủy sản.
Theo đó, thời gian tới, Vicofa vẫn tiếp tục ra sức bám sát đề án tái canh cho đến lúc thành hiện thực. Trong đó, việc xem xét tái canh sẽ được định hướng chắt lọc, chủ yếu tập trung vào những vườn cây già cỗi, sâu bệnh...

Giới thiệu với bạn về việc DN ngoại đầu tư bán lẻ: Thua keo này bày keo khác

Hiện giá thuê mặt bằng bán lẻ tại Việt Nam trung bình khoảng 65 USD/m2/tháng. Nhưng tại khu vực trung tâm TP.HCM, mức giá có thể lên tới 200 USD/m2/tháng. Một nhà kinh doanh siêu thị có tiếng tại TP.HCM tính toán: “Để có lãi sau 5 năm với một siêu thị diện tích 1.000m2, doanh thu phải đạt ít nhất 200 triệu đồng/ngày cùng giá thuê mặt bằng khu vực trung tâm không quá 20 USD/m2/tháng, xa trung tâm không quá 10 USD/m2/tháng”.
Tuần qua, thương hiệu Wellcome đã chính thức biến mất khỏi thị trường Việt Nam bằng việc hoàn trả mặt bằng và hoạt động kinh doanh của chuỗi 3 siêu thị tại quận 1 (TP.HCM), Kiên Giang và Cần Thơ cho Công ty Đông Hưng, chủ sở hữu Citimart.
Vẫn hấp dẫn với các nhà bán lẻ
Một cửa hàng Giant Việt Nam
So với chuỗi hàng trăm siêu thị Wellcome dày đặc hiện nay tại Hong Kong và một số nước Châu Á, mức độ đầu tư 3 siêu thị này tại Việt Nam trong 5 năm qua là khá khiêm tốn. Giờ phải rút lui, dễ thấy rằng Wellcome không thể vượt qua được ngưỡng thử thách 5 năm để tiến tới điểm hòa vốn như quy luật kinh doanh của các chuỗi siêu thị.
Phân tích sâu vào mô hình kinh doanh này, các nhà bán lẻ có thể nhận thấy những rủi ro ẩn chứa bên trong.
Hãy lấy siêu thị Wellcome ở quận 1, TP.HCM làm ví dụ. Mặt bằng tại đây chỉ khoảng hơn 300m2, trong khi Co.opMart có siêu thị rộng gần gấp đôi chỉ cách đó vài trăm mét trên đường Cống Quỳnh. Các mặt hàng bày bán tại Wellcome không có gì nổi bật. Trong khi đó, Co.opMart ngày càng đẩy mạnh chiến lược đầu tư các nhãn hàng riêng của mình. Wellcome trong 5 năm qua vẫn chỉ có 3 siêu thị tại Việt Nam trong khi Co.opMart mở thêm 10 siêu thị/năm.
Bỏ Wellcome, song công ty mẹ Dairy Farm không định rút khỏi Việt Nam. Tháng 9/2011, công ty thương mại và đầu tư Á Châu, đại diện thương mại của Dairy Farm tại Việt Nam, đã đưa vào hoạt động cửa hàng Guardian đầu tiên chuyên bán lẻ các mặt hàng chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp tại TP.HCM. Vốn đầu tư ban đầu là khoảng hơn 2 tỉ đồng/cửa hàng có diện tích tối thiểu 80m2.
Hiện chuỗi Guardian đã phát triển được 10 cửa hàng tại TP.HCM và dự kiến mở thêm 2 trong những tháng cuối năm nay để thực thi chiến lược phát triển 1 cửa hàng/tháng. “Với giá bán chủ yếu phục vụ mọi đối tượng khách hàng, một cửa hàng Guardian có thể hòa vốn sau 2 năm, tương tự như ở Singapore, Malaysia, Indonesia”, ông Micheal Lim, một nhà đầu tư Singapore tại TP.HCM, cho biết.
Tiếp tục đa dạng hóa chiến lược kinh doanh tại Việt Nam, cuối năm 2011, Dairy Farm quyết định tham gia liên doanh vốn 25 triệu USD với một đối tác trong nước để khai trương đại siêu thị Giant đầu tiên, diện tích 3.500m2 có vốn đầu tư 5 triệu USD tại tầng hầm trung tâm mua sắm Crescent Mall, quận 7, TP.HCM. Giám đốc điều hành Tập đoàn Dairy Farm Micheal Kok cho biết sẽ mở rộng chuỗi Giant tại đây với qui mô nhỏ như ở Malaysia. Ở đó, nhà bán lẻ này đã mở 13 siêu thị mới trong năm 2011 và 2012, nâng tổng số lên 77 tính đến nay.
Sau gần một năm hoạt động tại Việt Nam với hơn 10.000 mặt hàng, giới kinh doanh bán lẻ trong nước đánh giá Giant có thể sẽ trở thành đối thủ nặng ký của BigC, Metro và Co.opMart.
Tháng 6 vừa qua, tổ chức tư vấn A.T.Kearney (Mỹ) công bố báo cáo về chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu, trong đó Việt Nam đã rơi xuống vị trí 32 so với ngôi đầu của năm 2008. Tuy nhiên, ông Nguyễn Thành Nhân, Phó tổng Giám đốc Co.opMart cho rằng, kết quả này không ngăn bước những nhà đầu tư thâm nhập ngành bán lẻ Việt Nam.
Năm nay, thị trường tiếp tục chứng kiến tốc độ phát triển chóng mặt của 3 thương hiệu lớn nhất là Metro, BigC và Co.opMart. Hôm 17/10, Metro đã mở trung tâm bán sỉ thứ 19 tại Việt Nam sau hơn một thập niên gia nhập thị trường. Nhỉnh hơn Metro, hiện BigC đã có tới 20 cửa hàng tại Việt Nam, còn thương hiệu bán lẻ nội địa Co.op Mart sẽ tiếp tục mục tiêu mở 10 siêu thị/năm để đạt mức 100 siêu thị vào năm 2015.
Chiến lược mở rộng chuỗi bán lẻ tại Việt Nam luôn đồng hành với cửa ải lớn nhất là vấn đề mặt bằng. Các nhà đầu tư vẫn rất khó khăn khi tìm kiếm mặt bằng kinh doanh có diện tích lớn với giá thuê hợp lý.
Hiện giá thuê mặt bằng bán lẻ tại Việt Nam trung bình khoảng 65 USD/m2/tháng. Nhưng tại khu vực trung tâm TP.HCM, mức giá có thể lên tới 200 USD/m2/tháng. Một nhà kinh doanh siêu thị có tiếng tại TP.HCM tính toán: “Để có lãi sau 5 năm với một siêu thị diện tích 1.000m2, doanh thu phải đạt ít nhất 200 triệu đồng/ngày cùng giá thuê mặt bằng khu vực trung tâm không quá 20 USD/m2/tháng, xa trung tâm không quá 10 USD/m2/tháng”.
Trong thực tế, khó khăn về mặt bằng vẫn có thể được hóa giải từ các đại gia bán lẻ hàng đầu là Metro, BigC và Co.opMart bằng những cách khác nhau. Co.opMart có Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Saigon Co-op với chức năng chuyên săn lùng các mặt bằng đẹp trong cả nước. Còn cách làm của Metro khá giống với Wall-Mart (Mỹ) là thường mua đứt hay thuê mặt bằng dài hạn. Trong khi đó, BigC lại thích hợp tác với từng địa phương để mở siêu thị với pháp nhân độc lập, hoạt động theo hình thức nhượng quyền hay chuyển giao công nghệ. Tất nhiên, đa phần chủ đầu tư ở mỗi địa phương sẽ phải lo luôn chuyện mặt bằng.
Mục tiêu M&A
Trước thị phần áp đảo của 3 chuỗi bán lẻ lớn nhất nước này, Dairy Farm phải chọn chiến lược tối ưu nào để có thể đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tại Việt Nam?
“Với tiềm lực và kinh nghiệm quốc tế của nhà bán lẻ này, tôi nghĩ mua bán-sáp nhập (M&A) sẽ là con đường ngắn nhất mà họ sẽ nhắm tới”, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam nói. Hiện siêu thị Giant đầu tiên tại quận 7 chính là sản phẩm liên doanh 25 triệu USD giữa Dairy Farm với Công ty Cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội. Nhưng theo giới bán lẻ trong nước, không loại trừ khả năng tập đoàn này sẽ lấn dần bằng cách mua lại cổ phần của đối tác Việt Nam. Một khả năng M&A khác là Dairy Farm cũng có thể sẽ nhắm các doanh nghiệp bán lẻ trong nước đang kinh doanh kém hiệu quả để thâu tóm.
Tại Campuchia và Philippines, trong quí II/2012, Dairy Farm đã hoàn tất 2 thương vụ M&A có tổng trị giá 289 triệu USD. “Chiến lược M&A đã giúp chúng tôi đạt mức tăng trưởng doanh thu 10% lên 5,5 tỉ USD trong nửa đầu năm nay”, Giám đốc điều hành Tập đoàn Dairy Farm Micheal Kok, cho biết.

Tìm hiểu về trung tâm thương mại: Giới tuyến hạng sang

Còn với Takashimaya, đây cũng là bước đi trong chiến lược phát triển hai thị trường trọng điểm là Trung Quốc và Đông Nam Á. Tại Singapore, Takashimaya cũng đã phát triển và quản lý TTTM trên cung đường mua sắm Orchard Road. Bà Jane Neo, Giám đốc Tiếp thị Công ty TNHH Keppel Land Việt Nam, cho rằng, Keppel Land không ngại việc có nhiều TTTM phát triển trong cùng một khu vực vì Takashimaya là một đối tác lớn, hơn nữa, đến năm 2015, dự án mới đi vào hoạt động nên còn thời gian khá dài để Keppel Land làm việc với nhiều khách thuê khác.
Án ngữ "khu đất vàng"
Thêm Vincom Center A, hai TTTM của Tập đoàn Vingroup kết nối trên một trục của "khu đất vàng", áp đảo về quy mô cũng như đẳng cấp.
Khi Vincom B (nằm ngay trục Lý Tự Trọng - Đồng Khởi - Lê Thánh Tôn, quận 1) đi vào hoạt động năm 2010, nhiều người vẫn còn hoài nghi về sức cạnh tranh của TTTM này. Bởi vì, dù nằm ở "khu đất vàng" nhưng Vincom B nằm lọt giữa Diamond Plaza (trục Lê Duẩn - Phạm Ngọc Thạch - Nguyễn Văn Chiêm, quận 1) và Parkson (trục Đồng Khởi - Lê Thánh Tôn).
Tuy vậy, khi Vincom Center A (trục Đồng Khởi - Lê Lợi - Lê Thánh Tôn - Nguyễn Huệ) ra mắt, Parkson trở nên "lạc điệu" giữa hai TTTM sầm uất của Tập đoàn Vingroup cả về quy mô lẫn thương hiệu của khách thuê. Nếu Vincom Center A và B phát triển theo mô hình các TTTM tại Singapore, tức giữa các TTTM trên cùng trục đường được kết nối với nhau thì Parkson sẽ ra sao trong việc thu hút người tiêu dùng?
Xét về quy mô, Vincom Center A là TTTM cao cấp và có diện tích lớn nhất khu vực trung tâm hiện nay với hơn 91.000m2, bao gồm TTTM có diện tích hơn 38.000m2 được bố trí 3 tầng ngầm và 4 tầng nổi; khách sạn Vinpearl Luxury tiêu chuẩn 5 sao (dự kiến khai trương vào đầu năm 2013) và bãi giữ xe ngầm trên 25.000m2.
Theo đại diện của Tập đoàn Vingroup, cả hai TTTM Vincom Center A và B sẽ tạo nên một quần thể mua sắm, giải trí độc đáo và mang tầm vóc quốc tế, hiện đại bậc nhất tại TP.HCM.
Thông tin từ Vingroup cho thấy, tính đến thời điểm này, cả hai TTTM có tỷ lệ lấp đầy hơn 95%, trong đó, Vincom Center A đã thu hút gần 200 thương hiệu cao cấp trên thế giới.
Được biết, đây cũng là TTTM thứ 5 trong chiến lược phát triển chuỗi 10 TTTM đến năm 2015 của Tập đoàn Vingroup và thuộc nhóm TTTM mang thương hiệu "Vincom Center" - định vị dưới 100.000m2 (thương hiệu thứ hai mà Vingroup phát triển mang tên "Vincom Mega Mall" - trên 100.000m2, đang phát triển tại thị trường Hà Nội).
Phân hạng trên đỉnh
Sau sự xuất hiện của Vincom Center A và các TTTM sắp xây dựng, những cái tên "hoành tráng một thời" như Parkson, Diamond Plaza, Zen Plaza, Saigon Center, Thương xá Tax, Lucky Plaza có đẩy xuống "nhóm 2"? 
Thực tế hiện nay, không chỉ có Vincom Center mà ngay tại khu vực trung tâm quận 1 vẫn còn đó những tên tuổi khác như: Parkson (thuộc Tập đoàn Lion Group, Malaysia), Diamond Plaza (do Công ty Liên doanh TTTM Quốc tế IBC, Hàn Quốc phát triển), Zen Plaza (Công ty TNHH Zen Plaza, Nhật Bản), Saigon Center (Công ty TNHH Keppel Land - Watco), Thương xá Tax (Satra), Lucky Plaza...
Đây được xem là "thế hệ TTTM 1.0" vì được phát triển trong khoảng thời gian từ 1995 - 2000, có diện tích nhỏ, dưới 20.000m2 và quy mô trung bình, ngay cả Diamond Plaza dù ở vị trí đắc địa nhưng cũng chỉ xếp hạng 2.
Sau năm 2000, một vài TTTM cũng đã mọc lên, tiêu biểu là MasterZone (trục Hai Bà Trưng - Trần Cao Vân, quận 1) và Kumho Asiana Plaza (trục Lê Duẩn - Hai Bà Trưng - Lý Tự Trọng)...
Tuy nhiên, hai trung tâm này không bao lâu sau ngày mở cửa đã... bỏ cuộc vì tình hình kinh doanh không khả quan. Hiện nay, tại Kumho Asiana Plaza chỉ còn là "thiên đường" của các nhà hàng "ngoại", còn các thương hiệu thời trang nổi tiếng tồn tại trước đây đã vắng bóng.
Vì sao họ sớm nói lời chia tay? Theo ông K.P.Singh, Giám đốc Điều hành Công ty TNHH DTZ Debenham Tie Leung Việt Nam, trong bất kỳ thị trường nào, đặc biệt là thị trường có nhiều cạnh tranh, mấu chốt để một mô hình bán lẻ thành công là nhà phát triển có kế hoạch và chiến lược đúng trước khi bắt tay vào xây dựng.
Nếu thị trường đã phát triển đến một mức độ nhất định, người ta không thể thành công khi chỉ đơn giản lấy lại mô hình trước đó để áp cho dự án mới. "Điều quan trọng là nhà phát triển phải tiến hành nghiên cứu thị trường thật chi tiết, hiểu được nhu cầu của thị trường mục tiêu và cách sắp xếp gian hàng của khách thuê”, ông K.P.Singh phân tích.
Mặt khác, theo Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, nếu phân theo mô hình có thể chia bán lẻ thành hai dạng: bán lẻ truyền thống và bán lẻ hiện đại.
Trong bán lẻ hiện đại lại phân thành các nhóm: siêu thị tổng hợp (Saigon Co.op, BigC, LOTTEMart...), nhóm chuyên doanh điện tử - điện máy (Nguyễn Kim, Pico, Trần Anh...), nhóm chuyên doanh (Fahasa, PNJ, SJC, VinatexMart...), TTTM (Diamond, Lotte, Parkson, Pico Plaza, trong TTTM có thể có hoặc không có siêu thị), cửa hàng tiện lợi (Circle K, Family Mart), mạng lưới phân phối - bán lẻ của các nhà sản xuất (Vinamilk, May 10, Việt Tiến).
Mỗi nhóm này đều có khách hàng mục tiêu khác nhau. Theo ông K.P.Singh, đa số người tiêu dùng Việt Nam sử dụng kênh bán lẻ hiện đại thuộc nhóm gia đình hoặc người mua sắm trẻ.
Cả hai nhóm này đều có nhu cầu về F&B (Fashion & Beauty), giải trí và được trải nghiệm mua sắm tại "một điểm dừng chân". Chính vì thế, những TTTM chỉ giới hạn trong một vài dịch vụ dễ dẫn đến thất bại.
Năm 2008, trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, ông Tham Tuck Choy, Tổng giám đốc Parkson Việt Nam, nhìn nhận, một trong ba thử thách của Parkson sau năm 2009 là sự xuất hiện của các nhà bán lẻ khác tại thị trường Việt Nam.
Điều lo ngại của ông đã trở thành hiện thực khi Parkson đang mất dần lợi thế tại khu vực trung tâm. Sự ra đời của các TTTM hiện đại như Vincom Center đang trở thành thách thức thật sự đối với các TTTM xuất hiện trước đó, trong đó bao hàm cả việc phân chia về đẳng cấp.
Yếu tố này không chỉ được phản ảnh qua vị trí, quy mô đầu tư, thương hiệu nhà phát triển - quản lý mà còn nằm ở cơ cấu khách thuê.
Theo đó, dù số lượng TTTM Parkson tại TP.HCM đang áp đảo với chuỗi 5 trung tâm (năm 2013 sẽ tăng lên 7 TTTM, bao gồm hợp tác với chủ đầu tư dự án để thuê tầng thương mại lẫn mua) nhưng 4 trong số đó là nằm xa khu vực trung tâm quận 1.
Trong khi đó, Zen Plaza, tọa lạc tại con đường thời trang của thành phố nhưng nếu so với Diamond, Vincom Center hay Parkson thì Zen không sánh kịp về quy mô lẫn thương hiệu khách thuê.
Liên quan đến vấn đề này, ông Lê Khắc Hiệp, Phó chủ tịch Tập đoàn Vingroup, cho biết, tiêu chí chọn khách thuê của Vincom là uy tín, thương hiệu tốt và có sự cam kết lâu dài.
Theo tìm hiểu thực tế của chúng tôi, hầu hết các TTTM ở quận 1 đều có khách thuê là các thương hiệu cả trong lẫn ngoài nước nhưng tỷ lệ lại khác nhau.
Cụ thể, Vincom Center A, B được định vị là hàng hiệu thế giới, trong đó, Vincom Center A trưng bày và cập nhật những các mặt hàng cao cấp dòng "luxury" của thế giới như: Hermes, Christian Dior, Versace, Ralph Lauren, Zegna, Omega, Montblanc, Panerai, Promod, Oasis, Blanco, Hugo Boss...
Hàng hóa và thương hiệu sẽ rẻ hơn và thấp cấp hơn tại Parkson, Diamond. Thậm chí, tại Zen Plaza, thương hiệu trong nước đang chiếm trên 50% cơ cấu gian hàng, đặc biệt là ở lĩnh vực thời trang.
Hơi nóng từ phía sau
Nhiều dự án TTTM mới sẽ hoàn thành vào năm 2015, hứa hẹn thu hút các nhà bán lẻ cao cấp và chuyên nghiệp từ Nhật Bản và Singapore đến thị trường Việt Nam.
Tuy mô hình bán lẻ hiện đại, điển hình là TTTM đang cạnh tranh gay gắt trong việc chọn khách thuê và thu hút người tiêu dùng, nhưng đó chỉ là điểm khởi đầu.
Các nhà phân tích thị trường đang đặt cột mốc cho năm 2015 khi mà không ít dự án lớn tại các "khu đất vàng" chính thức đi vào hoạt động.
Theo đó, tại khu vực trung tâm quận 1 sẽ có ít nhất ba TTTM hoàn thành, cụ thể là dự án The One Ho Chi Minh City (Bitexco phát triển, trục Phạm Ngũ Lão - Trần Hưng Đạo - Hàm Nghi, quận 1), tổ hợp TTTM - khách sạn 5 sao và căn hộ dịch vụ Lavenue Crown (trục Lê Duẩn - Hai Bà Trưng, quận 1, do Công ty CP Đầu tư Lavenue làm chủ đầu tư; liên doanh này bao gồm: Công ty CP Kinh Đô, Công ty Mayflower - Mỹ và Công ty Quản lý kinh doanh nhà TP.HCM) và dự án Saigon Centre - giai đoạn 2 (trục Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Pasteur, do Công ty TNHH Keppel Land Việt Nam, Singapore đầu tư.
Thông tin từ DTZ Debenham Tie Leung Việt Nam, đơn vị tiếp thị độc quyền dự án Lavenue Crown cho thấy, hiện tại, chủ đầu tư đang xem xét để điều chỉnh diện tích phần thương mại (tăng hoặc giữ nguyên như thiết kế ban đầu).
Cũng theo DTZ, do Lavenue Crown nằm cạnh TTTM Diamond Plaza và ngay vị trí đắc địa tại quận 1 nên phần TTTM, chỉ chọn những tên tuổi xứng tầm phát triển. "Một số nhà bán lẻ cao cấp nước ngoài, chưa từng có dự án tại thị trường Việt Nam đã gặp gỡ chủ đầu tư dự án để tìm cơ hội hợp tác", đại diện DTZ tiết lộ.
Trong khi đó, phía Keppel Land cũng cho hay, bên cạnh việc Tập đoàn bán lẻ Nhật Bản Takashimaya thuê lại 15.000m2 sàn tại dự án Saigon Centre - giai đoạn 2 (dự kiến hoàn thành vào quý II hoặc quý III/20115) để phát triển trung tâm mua sắm, Keppel Land cũng đang đàm phán với một số đối tác khác nhằm lấp đầy phần diện tích còn lại.
Còn với Takashimaya, đây cũng là bước đi trong chiến lược phát triển hai thị trường trọng điểm là Trung Quốc và Đông Nam Á. Tại Singapore, Takashimaya cũng đã phát triển và quản lý TTTM trên cung đường mua sắm Orchard Road. Bà Jane Neo, Giám đốc Tiếp thị Công ty TNHH Keppel Land Việt Nam, cho rằng, Keppel Land không ngại việc có nhiều TTTM phát triển trong cùng một khu vực vì Takashimaya là một đối tác lớn, hơn nữa, đến năm 2015, dự án mới đi vào hoạt động nên còn thời gian khá dài để Keppel Land làm việc với nhiều khách thuê khác.
Mức độ cạnh tranh giữa các TTTM sẽ không chỉ dừng lại ở khu vực trung tâm quận 1 mà xu hướng này sẽ hình thành ở khu vực quận 2 (Lotte, Parkson...), quận 7 (Crescent Mall, Parkson Paragon, Vivo City...), khu Tân Bình - Tân Phú (Parkson, Aeon...), do khu vực trung tâm không còn quỹ đất thích hợp, sự cạnh tranh và phân chia "đẳng cấp" giữa các nhà phát triển.
Tuy nhiên, nếu so với một số nước trong khu vực, số TTTM tại thị trường Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn (Singapore có đến 110 TTTM lớn nhỏ).
Theo TS. Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, thị trường hiện nay chủ yếu là bán lẻ truyền thống, bán lẻ hiện đại chỉ mới chiếm 20% trên cả nước (TP.HCM 40% - 42% và Hà Nội là 13%).
Ngoài ra, xét về sự phân bổ trên đầu người, thông thường sẽ có 100.000 dân/TTTM lớn, 10.000 người/siêu thị và 1.000 người/1 - 3 cửa hàng tiện lợi. "Bán lẻ Việt Nam vẫn còn xa mới đáp ứng được nhu cầu, thị trường vẫn còn nhiều khoảng trống cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia", bà Loan nhận định.
Tiềm năng là vậy nhưng cũng cần phải nhìn nhận, các TTTM chủ yếu bán hàng cao cấp, đối tượng khách hàng từ tầng lớp trung lưu trở lên và cả khách du lịch (như trường hợp của Singapore, du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn), trong khi lượng khách đến TP.HCM gần 4 triệu lượt/năm (Singapore trên 10 triệu lượt khách quốc tế/năm), đồng thời, tầng lớp trung lưu chưa chiếm phần áp đảo nên cuộc chiến tăng doanh thu và hút khách thuê, người tiêu dùng giữa các TTTM sẽ còn "bất phân thắng bại".